12/02/2015

1

Giảm nguy cơ mắc bệnh gút nhờ uống cà phê thường xuyên

Uống cà phê thường xuyên sẽ giúp nam giới trong độ tuổi trung niên giảm nguy cơ mắc bệnh gút. Đây là kết luận được các nhà khoa học đến từ Mỹ và Canada đưa ra khiến nhiều người không khỏi bất ngờ.

images


Uống cà phê thường xuyên tốt cho bệnh gút


Chúng ta thường được nghe khuyên rằng, những người mắc bệnh gút nên tránh đồ uống chứa chất kích thích, trong đó có cà phê. Tuy nhiên, nghiên cứu sau đây lại đưa ra một kết luận hoàn toàn trái ngược. Tiến sĩ Hyon Choi (Đại học British Columbia) cùng các cộng sự đã tiến hành nghiên cứu dựa trên dữ liệu của gần 46.000 nam giới trên 40 tuổi không có tiền sử mắc bệnh gút trong hơn 12 năm. Trong thời gian thực hiện nghiên cứu, có 757 người mắc gút. Khi khảo sát về chế độ ăn uống và theo dõi việc sử dụng cà phê, trà của họ, các nhà nghiên cứu nhận thấy, nguy cơ mắc gút giảm đáng kể ở những người thường xuyên uống cà phê.

Uống cà phê giúp giảm nguy cơ mắc bệnh gút ở nam giới tuổi trung niên


Cụ thể, việc uống 1-3 tách cà phê mỗi ngày giúp giảm 8% nguy cơ mắc gút. Và tỷ lệ này tăng dần khi uống 4-5 tách cà phê mỗi ngày, đó là giảm 40% nguy cơ mắc gút. Với những người nghiện cà phê (uống trên 6 tách mỗi ngày), có thể giảm gần 60% nguy cơ bị gút tấn công. Đồng thời, nguy cơ mắc gút cũng giảm ở những người uống cà phê đã được khử chất caffeine. Những người uống 1-3 tách mỗi ngày, giảm 33% nguy cơ mắc gút, uống trên 4 tách mỗi ngày thì nguy cơ bị bệnh giảm 27%.
Qua kết quả trên, các nhà nghiên cứu nhận định, không phải caffeine mà một chất khác trong cà phê là chlorogenic acid giúp chống oxy hóa, có thể tác động tới nguy cơ mắc bệnh gút. Và cần thêm nhiều nghiên cứu khác để tìm ra hoạt chất nào trong cà phê giúp ngăn ngừa nguy cơ mắc gút. Tuy nhiên, với kết quả của nghiên cứu trên thì những người mắc gút và đang uống cà phê hàng ngày có thể yên tâm hơn vì sở thích này không ảnh hưởng tới tình trạng bệnh.
Người mắc bệnh gút cần lựa chọn chế độ ăn uống phù hợp

Giải pháp hỗ trợ điều trị bệnh gút từ thảo dược


Lựa chọn một chế độ ăn uống phù hợp là điều mà các chuyên gia khuyến cáo với người mắc gút. Do đó, bất kỳ loại thực phẩm hay thức uống nào có lợi trong điều trị bệnh này cũng luôn được lựa chọn vào chế độ ăn uống hàng ngày của người bị gút.
Song song với đó, việc lựa chọn các loại thảo dược thiên nhiên giúp hỗ trợ điều trị gút cũng là phương pháp được nhiều người áp dụng. Trong những thảo dược này, trạch tả được xem là vị thuốc “tiên phong” bởi tác dụng điều trị bệnh gút, tăng cường đào thải axit uric và các chất có hại ra khỏi cơ thể một cách hữu hiệu.

Để kiểm soát bệnh gút hiệu quả, mỗi người cần thực hiện lối sống lành mạnh, lựa chọn thực phẩm hợp lý, đồng thời, nên kết hợp dùng sản phẩm thiên nhiên có chứa trạch tả đã được nghiên cứu khoa học chứng minh tác dụng. Và việc uống cà phê mỗi ngày cũng là một cách giúp bạn ngăn ngừa nguy cơ mắc gút.

Bài thuốc dân gian :ngải cứu

Bài thuốc Nam điều trị sốt xuất huyết

Bài thuốc sử dụng rau răm

Theo VinaHealth

11/04/2015

0

BẠC HÀ NÚI



BẠC HÀ NÚI

Tên khoa học: Caryopteri sincana Miq.; Họ Cỏ roi ngựa (Verbenaceae).
Tên đồng nghĩa: Caryopteris mastacanthus Schauer
Tên khác: Cỏ vắp thơm.

Mô tả:

Cây thảo, sống lâu năm, cao 30 - 50 cm. Thân mọc đứng, có lông, phần gốc hóa gỗ. Lá mọc đối, hình trái xoan, dài 3 - 7 cm, rộng 1,5-2 cm, gốc thuôn vát, đầu tù hơi nhọn, mép khía răng, mặt trên màu lục sẫm, có lông mềm, mặt dưới có lông màu trắng nhạt; cuống lá cũng có lông.
Cụm hoa mọc ở kẽ lá thành chùy, có lông; hoa nhỏ, màu lam nhạt hay tía, thơm; đài có ống ngắn, có lông, 5 răng hình mác nhọn; tràng có 2 môi, mặt trong và mặt ngoài có lông, môi dưới có tua nhỏ; nhị 4 đính ở họng, dài và thò ra ngoài tràng; bầu 4 ô, có lông.
Quả nang, có lông cứng, nứt làm 4 mảnh; 4 hạt, lồi ở mặt ngoài.
Mùa hoa: tháng 6-7.
Phân bố, sinh thái:
Chi Caryopteris Bunge phân bố chủ yếu ở vùng Đông Á; ở Việt Nam chỉ có 2 loài, trong đó có loài bạc hà núi.
Bạc hà núi phân bố rải rác từ Nhật Bản, Trung Quốc đến Bắc Việt Nam. Ở Việt Nam, cây phân bố nhiều ở các tỉnh vùng núi sát với biên giới Trung Quốc, như Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng... và ít hơn Hải Dương, Bắc Giang...
Bạc hà núi là loại cây ưa sáng, ưa ẩm và có thể hơi chụi bóng, thường mọc ở ven rừng núi đá vôi hay trên các nương rẫy và ruộng cao đã bỏ hoang. Cây sinh trưởng mạnh trong mùa mưa ẩm (xuân hè), đến cuối mùa hè thì ra hoa, khi quả già tự mở để hạt thoái ra ngoài. Cây con mọc từ hạt được thấy vào giữa mùa xuân, Bạc hà núi có khả năng tái sinh lại sau khi bị cắt.
Bộ phận dùng:
Toàn cây

Thành phần hóa học:

Toàn cây bạc hà núi chứa incanosid A (= 3-hydroxy-4-methoxy-β-phenylethyl α-L- rhamnopyranosyl (1-> 3)-(3-D-glucopyranosyl (1 ->2)-6-O-feruloyl-β-O-glucopyranosid) và incanosid B ( = 3-hydroxy-4-methoxy-β-phenylethyl α-L-rhamnopyranosyl (1 —> 3)-β-D- glucopyranosid) (CA 125: 110. 241m).
Ngoài ra, cây còn có incanon (= 11, 12, 14, 16-tetrahydroxy-17 (15 16) - abeo-abieta- 8,11, 13-tnenon (CA 126: 235. 938 w).
Tác dụng dược lý:
1. Tác dụng kháng khuẩn: Dịch chiết bạc hà núi có tác dụng ức chế rõ rệt in vitro trên Staphylococcus aureus, Corynebacterium diphtheriae, nhưng tác dụng có mức độ trên Salmonella typhi, S. paratyphi, Shigella dysenteriae và Streptococcus hemolyticus. Đã phân lập được một hoạt chất có tác dụng kháng khuẩn trong bạc hà núi, tạm gọi là lan hương thảo tố (ở Trung Quốc, bạc hà núi được gọi là lan hương thảo). Chất này hòa loãng với tỉ lệ 1: 10, có tác dụng ức chế in vitro trên Pseudomonas aeruginosa, Staphylococcus aureus và Enterococcus.
Trên chuột nhắt trắng gây nhiễm Staphylococcus aureus, muối natri của lan hương thảo tố tiêm dưới da với liều 0,5 - 1,5 g/kg bảo vệ được chuột, đại đa số chuột vẫn sống sót, trong khi ở lô không dùng thuốc, chuột chết 100%.
2. Tác dụng chống ho: Nước sắc bạc hà núi dùng liều 20 g/kg, cho chuột nhắt trắng uống, làm giảm số cơn ho do phun xông dung dịch amoniac.
3. Tác dụng cầm máu: Cho lợn hoặc chó uống bột hoặc cao bạc hà núi, thời gian chảy máu do vết cắt rút ngắn lại so với động vật không dùng thuốc. Dạng thuốc bôi có tác dụng điều trị các vết thương do cắt đứt ở lợn, chó, gà.
4. Độc tính: Tiêm dưới da muối natri của lan hương thảo tố cho 30 con chuột nhắt trắng, với liều 4,5-5 g/kg, sau 3 ngày chỉ có 1 con chết. Các con còn lại phục hồi lại bình thường.
Tiêm tĩnh mạch các liều 2,5; 2,25; 2,0 và 1,75 g/kg mỗi liều 5 con, tỷ lệ chết theo thứ tự là 4/5; 3/5; 3/5 và 0/5. Biểu hiện ngộ độc là chuột mệt lả, hô hấp khó khăn, chết do ngừng hô hấp.
Trên thỏ, tiêm tĩnh mạch muối natri của lan hương thảo tố liều 1 g/kg và 0,5 g/kg, không thấy có biểu hiện độc sau khi dùng thuốc. Nước tiểu do thỏ bài tiết ra vẫn còn tác dụng kháng khuẩn.
5. Thử lâm sàng:
- Chữa ho gà: Dùng nước sắc bạc hà núi cho 330 trẻ em bị ho gà uống, liều tính ra dược liệu khô, từ 1 - 3 tuổi 30g, 3 - 5 tuổi 45g, trên 5 tuổi 60 - 100 g/ngày. Kết quả đều có tác dụng, có trường hợp sau 3 ngày đã đỡ nhiều hoặc khỏi hẳn. Không thấy có tác dụng phụ.
- Chữa viêm thận, bể thận: Dùng dạng muối natri của lan hương thảo tố, tiêm bắp thịt 4ml/lần, ngày 4 lần. Đã thử 8 trường hợp, 4 khỏi, 3 đỡ, 1 không kết quả. Thời gian điều trị 6 - 25 ngày. Không có phản ứng phụ.

Tính vị, công năng:

Bạc hà núi có vị cay thơm, tính ấm, có tác dụng giải biểu, làm long đờm, chỉ khái, tán ứ huyết, trừ phong thấp, thư giãn gàn, giảm đau.
Công dụng:
Bạc hà núi được dùng chữa cảm phong hàn, nghẹt mũi, ho gà, viêm phế quản mạn tính, phong thấp, đau lưng, nhức xương, đòn ngã tổn thương, viêm dạ dày ruột, viêm thận, bể thận, đau bụng kinh, kinh nguyệt không đều. Liều dùng hàng ngày 15 - 30g, sắc hoặc ngâm rượu uống.
Dùng ngoài, cây tươi giã đắp hoặc nấu nước rửa trị mụn nhọt, viêm mủ da, eczema, ngứa, lở sơn, vết thương chảy máu.
Bài thuốc có bạc hà núi:
1. Chữa phong thấp, đau mỏi, tê bại, bẩm tím, ứ máu:
Bạc hà núi và huyết giác lượng bằng nhau, ngâm rượu. Ngày uống 30 ml.
2. Chữa viêm dạ dày, ruột:
Bạc hà núi 30g, địa du 15g, sắc uống. Dùng 10 ngày.

TÀI LIỆU THAM KHẢO Viện Dược liệu (2004), “Cây thuốc và động vật làm thuốc Việt Nam”, tập II, Nhà xuất bản Khoa học kỹ thuật
Theo duoclieu.org

11/03/2015

2

Cảnh báo: Dừng khẩn cấp việc cho trẻ dưới 3 tuổi uống nước hầm xương!

Các mẹ thường có thói quen ninh xương ống, lọc lấy nước nấu cháo, quấy bột cho con. Tuy nhiên, thói quen này khiến trẻ dưới 3 tuổi bị còi xương, thiếu chất.

Người ta thường sử dụng các loại xương như xương lợn, chân gà hầm lên lấy nước cho trẻ ăn vì muốn có thêm chất đạm, canxi và chất béo.

Tuy nhiên, theo chương trình Cuộc sống thường ngày, TS.BS. Phạm Thị Thúy Hòa, Viện trưởng viện dinh dưỡng ứng dụng cho biết, 100 ml nước xương chỉ có 0,6 g đạm. Lượng này chỉ đáp ứng 1/30 nhu cầu đạm một ngày của trẻ (trẻ cần 21g đạm/ngày).

Tương tự, trong 100 ml có 33,5 mlg canxi, chỉ đáp ứng 1/10 nhu cầu canxi/ngày của trẻ.

Chưa kể, trẻ muốn hấp thu được canxi thì tỷ lệ canxi và phốt pho phải cân đối. Nhưng trong nước xương, lượng canxi cao trong khi lượng phốt pho rất thấp.

Khi cho trẻ ăn nước xương hầm, cơ thể sẽ lấy phốt pho từ xương cột sống của trẻ, khiến bé bị còi xương thứ phát.

Một số bà mẹ còn mắc thêm sai lầm khi lựa chọn những loại xương có tủy. Trong tủy ít đạm, nhiều chất béo no gây khó tiêu, ức chế hấp thu các chất dinh dưỡng khác.

Trong một bát bột nước xương hầm, bé thiếu hàng loạt các dinh dưỡng cần thiết dẫn tới một loạt các bệnh về thiếu chất như thấp còi, thiếu năng lượng (thấp cân) đồng thời thiếu cả canxi và các chất dinh dưỡng khác.

BS Thúy Hòa khuyến cáo, chỉ nên dùng nước hầm xương cho trẻ từ 3 tuổi trở lên.

 

0

Thanh hao hoa vàng

Đây là dược thảo được dùng để điều chế thuốc điều trị sốt rét. Cây cỏ này đã được sử dụng làm thuốc từ rất lâu đời.


Nhà nghiên cứu Tu Youyou được trao 50% giải Nobel từ công trình nghiên cứu phương thức điều trị mới Artemisinin đối với bệnh sốt rét. Bà là người phụ nữ Trung Quốc đầu tiên được trao giải Nobel Y học.

GS. Tu Youyou (Đồ U U); sinh ngày 30/12/1930) là nghiên cứu viên cao cấp Học viện Y học cổ truyền Trung Quốc ở Bắc Kinh từ năm 1965. Bà đã nhận bằng Tiến sĩ từ Trường Dược, Đại học London, là một trong số rất ít các dược sĩ người Trung Quốc được đào tạo về Tây dược tại thời điểm đó
Bà đã tìm đọc trong các cuốn sách cổ về Đông y, gồm những bài thuốc có từ năm 350 sau Công nguyên, sàng lọc từ 640 toa thuốc, hơn 2.000 công thức nấu ăn truyền thống của Trung Quốc và chiết xuất 380 thảo dược, để tìm cho ra một phương thức trị liệu sốt rét có hiệu quả.
Trong những năm 1970, bà Tu Youyou và nhóm nghiên cứu của mình đã điều chỉnh quy trình chiết xuất để cuối cùng phân lập được hoạt chất artemisinin. Nhờ đó, bà đã xác định được rằng, artemisinin là một loại thuốc chống sốt rét, đã phổ biến ở Trung Quốc trước khi người phương Tây đặt chân tới đây.
Bà đã nhận được nhiều giải thưởng danh giá về khoa học. Năm 2011, bà đã nhận giải Albert-Lasker về nghiên cứu y học lâm sàng với thuốc Artemisinin.

Thuốc Artemisinin

Thuốc Artemisinin được chiết xuất từ cây thanh hao hoa vàng(Artemisia annua L., thuộc họ Asteriaceae).

Hiện nay, artemisinin đã trở thành thuốc điều trị hiệu quả nhất và an toàn nhất chống lại bệnh sốt rét, đặc biệt hơn, thuốc này được coi là một dược phẩm có giá rất rẻ. Mặc dù sốt rét đang suy giảm mạnh nhờ các hành động tích cực của Liên Hiệp Quốc, nhưng vẫn còn khoảng 198 triệu người nhiễm bệnh sốt rét vào năm 2013, và gây tử vong cho 584.000 người, chủ yếu là trẻ em ở châu Phi.
GS. Tu Youyou từng phát biểu: “Được trang bị với một kiến thức chuyên sâu trong cả y học cổ truyền Trung Quốc và khoa học dược phẩm hiện đại, nhóm nghiên cứu của tôi đã kế thừa và phát triển những tinh hoa của y học cổ truyền Trung Quốc, sử dụng khoa học và công nghệ hiện đại, và cuối cùng, chúng tôi thực hiện thành công việc phát hiện và phát triển của hoạt chất artemisinin (Qinghaosu) từ dược thảo Thanh hao (Qinghao, Artemisia annua L.).

Thanh hao hoa vàng


Cây thanh hao hoa vàng còn gọi là thanh cao, thảo cao, ngải si, ngải hôi, ngải đắng
Trung Quốc: Caohao, Cao Qinghao, Cao Haozi, Chouhao, Chou Qinghao, Haozi, Jiu Bingcao, Kuhao, San Gengcao, Xianghao, Xiang Sicao, Xiyechao.
Anh: Annual wormwood, sweet wormwood, sweet annie.
Tên khoa học Artemisia annua L., thuộc họ Cúc - Asteriaceae.


Cây thảo mọc hằng năm, cao từ 1,5 - 2m (cây trồng được chăm bón tốt có thể cao 3 - 4m); thân có rãnh, gần như không lông, có mùi thơm nhẹ. Lá mọc cách có phiến xoan, xẻ lông chim 2 lần, thành những dải hẹp.
Chùy cao ở ngọn mang chùm dài, hẹp; hoa đầu cao 1,8 - 2mm; lá bắc ngoài hẹp, có lông xanh; lá bắc giữa và lá bắc trong, xoan rộng; mỗi cành nhỏ có 3 - 7 cụm hoa. Mỗi cụm hoa có 25 - 35 hoa, trong đó có 20 - 25 hoa lưỡng tính ở giữa. Quả bế nhẵn, cao 0,5 - 0,8mm, không có mào lông, màu vàng hoặc nâu, với bề mặt sáng bóng có rãnh dọc và chứa một hạt duy nhất.
Thanh hao phân bố ở Nhật Bản, Triều Tiên, Trung Quốc, Ấn Độ và Việt Nam.
Ở Việt Nam, có gặp ở Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Bắc Giang, Hải Dương... Thanh hao mọc hoang và chính thức được nhà thực vật học người Pháp Gagnepain phát hiện và mô tả vào năm 1922.
Mùa hoa tháng 6 - 11; mùa quả tháng 10 - 3. Thường lụi vào tháng 5.
Bộ phận sử dụng: Toàn cây, lá, hạt.
Lá cây thanh hao Artemisia annua được thu hái vào lúc cây sắp ra hoa, tốt nhất là vào mùa hè, khi cây có nhiều lá, cắt phần trên mặt đất, phơi khô, lắc hoặc đập cho lá rụng, loại bỏ thân cành, lấy lá phơi đến khô hoặc sấy nhẹ đến khô.
Bảo quản nơi khô ráo, thoáng, tránh mốc, mọt.

Theo Đông y, thanh hao có vị đắng, cay, tính mát; tác dụng thanh nhiệt giải thử, trừ chưng, triệt ngược; bổ hư lao, lợi tiêu hóa, thông khí trệ, lợi tiểu.
Thường được dùng chữa sốt nóng khát nước, phiền nhiệt ra mồ hôi trộm, tối nóng sáng mát, thận chưng lao nhiệt, sốt rét cơn, ăn uống kém, bệnh vàng da, kết hạch, trẻ em cảm phong nhiệt, phát sốt, kinh giật.
Dùng ngoài chữa ghẻ lở, ngứa da, bằng cách nấu nước tắm rửa, ngâm, xát....
Ngày nay, người ta ghi nhận artemisinin có các tác dụng: kháng siêu vi khuẩn,ức chế sự nhân giống của nhiều vi khuẩn, chống ung thư, cókhả năng gây ra sự tự hủy của nhiều loại tế bào ung thư, đặc biệt trong trường hợp ung thư tiền liệt tuyến, ung thư vú, chữa bệnh trĩ, được dùng chữa sốt nóng khát nước, phiền nhiệt ra mồ hôi, tối nóng sáng mát, hâm hấp sốt lâu ngày (lao nhiệt), sốt rét cơn, bệnh vàng da, bệnh ngoài da.

Các bài thuốc dùng thanh hao hoa vàng:


Chữa đau nóng trong xương do nhiệt, ngày nhẹ đêm nặng (cốt chưng lao nhiệt):


Thanh hao 10g, sơn chi tử 10g, miết giáp 10g, hoàng kỳ 10g, tang bạch bì 10g, bạch truật 10g, tri mẫu 10g, hoàng liên 4g, sài hồ 8g, long đởm thảo 8g, cam thảo 6g.
Nấu với 750ml nước, sắc còn 300ml, chia 2 lần uống trong ngày.

Chữa sốt rét cơn:


Thanh hao 40g, rửa thật sạch, cắt nhỏ, ngâm trong 500ml nước khoảng 1 giờ, đem nấu sôi, sắc còn 300ml, chia 2 lần uống trong ngày.
Hoặc đun sôi 1 lít nước, cho vào 10g lá thanh hao khô, chia 3-4 lần, uống trong ngày. Uống trà trong vòng 5 ngày.

Chữa bệnh kết hạch, sốt cơn, mồ hôi trộm, ăn uống kém:


Thanh hao hoa vàng 8 - 16g, nấu với 500ml nước, sắc còn 300ml, chia uống 2 lần trong ngày.

Chữa trẻ em cảm phong nhiệt, phát sốt, kinh giật:


Lá thanh hao hoa vàng 10 - 15g, rửa thật sạch, giã nát, chế 100ml nước sôi vào hòa đều, gạn lấy nước cốt cho uống.
Lưu ý:
- Không nên dùng thanh hao cho phụ nữ đang mang thai, vì có thể gây sảy thai với liều cao.
- Những bệnh nhân có chứng rối loạn dạ dày - ruột, hoặc đang dùng thuốc kháng axít, cũng không nên dùng thanh hao, vì có thể làm gia tăng sự sản xuất axít dạ dày.

Artemisinin
Đã trở thành thuốc điều trị hiệu quả nhất và an toàn nhất chống lại bệnh sốt rét
Ở Việt Nam, vào năm 1989, nhà khoa học Đinh Huỳnh Kiệt và cộng sự công bố kết quả phân tích thành phần hóa học của cây thanh hao hoa vàng mọc hoang và chiết suất artemisinin để chữa sốt rét cho bộ đội.
Cũng từ năm 1989, Viện Dược liệu, Viện Khoa học Việt Nam, Viện Y học quân sự đều nghiên cứu các phương pháp để chiết suất artemisinin từ thanh hao hoa vàng và bán tổng hợp các loại thuốc chống sốt rét từ artemisinin như: Artesunat, Artemether, Arteether, đã sản xuất hàng triệu liều thuốc chống sốt rét cung cấp cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu.

Theo Lương y Đinh Công Bảy - Sức khỏe và Đời sống

10/30/2015

1

Bài thuốc sử dụng rau răm

Trong dân gian, người ta sử dụng rau răm để gây sẩy thai cho những cô gái nhẹ dạ, lỡ dại mang thai ngoài ý muốn đối với trường hợp chậm kinh trên dưới 1 tuần (5 – 9 ngày).
Cách dùng đơn giản: 500 gam rau răm tươi, thân đỏ hơi ngả sang màu tím (rau răm thân xanh trắng không có tác dụng gây sảy thai).
Chỉ lấy thân và lá non, bỏ rễ và lá già, rửa sạch, để ráo nước. Giã, ép nát, vắt lấy nước được khoảng 250 ml (1 xị). Uống một lần duy nhất vào buổi tối trước khi đi ngủ. Nếu có kết quả thì ngay trong đêm đó hoặc sáng hôm sau, phôi thai tự trục ra ngoài.
Nếu không có kết quả thì nên áp dụng biện pháp hút điều hòa kinh nguyệt, mặc dù, kết quả thí nghiệm thử trên chuột cho thấy, chuột con sinh ra sau khi chuột mẹ đã cho uống nước ép rau răm vẫn sống và sinh sản bình thường.
Rau răm còn là vị thuốc chữa đau bụng, đầy hơi, lạnh bụng, nôn mửa, say nắng, khát nước. Nước ép rau răm tươi có khả năng giải độc nọc rắn. Dùng ngoài có thể chữa hắc lào, ghẻ lở, sâu quảng và tê bại.

10/15/2015

2

Bài thuốc Nam điều trị sốt xuất huyết

Trong y học cổ truyền, sốt xuất huyết được xếp vào nhóm ôn bệnh và ôn dịch và được trị liệu bằng nhiều biện pháp khác nhau,xin được giới thiệu một số bài thuốc tiêu biểu điều trị sốt xuất huyết độ I và II, đơn giản, dễ kiếm ở nông thôn và vùng sâu, vùng xa.

Bài 1: Rau má 20g, cỏ mần trầu 20g, lá huyết dụ 20g, lá cối xay 20g, cỏ nhọ nồi sao cháy 40g, sắc đặc uống.

Bài thuốc Nam đơn giản điều trị sốt xuất huyết

Lá cối xay

Bài 2: Lá cối xay, lá bông mã đề (hoặc rau má hoặc cỏ mần trầu hoặc cỏ tranh) mỗi thứ 10 - 20g, cỏ nhọ nồi tươi 30 - 40g (nếu khô thì 15 - 20g), trắc bá diệp sao đen 12g (hoặc lá huyết dụ hoặc hoa hòe 16g), sắc uống trong ngày. Nếu có ban ngứa cho thêm rau sam 20g; nếu đại tiện táo cho thêm mồng tơi 20g hoặc rau sam 20g.

Bài 3: Lá cúc tần 12g, cỏ nhọ nồi 16g, bông mã đề 16g, trắc bá diệp sao đen 16g (nếu không có thì thay bằng kinh giới sao đen 12g), sắn dây 20g nếu không có thì thay bằng lá dâu 16g, rau má 16g, lá tre 16g, gừng tươi 3 lát, sắc với 600ml nước trong 30 phút, uống ấm, chia 3 lần trong ngày.

Bài 4: Sinh địa 12g, mạch môn 12g, hoa hòe 12g, huyền sâm 12g, cỏ nhọ nồi khô 30g, sắc với 3 bát nước, cô lại còn 1 bát chia uống 2 lần trong ngày. Dùng tốt cho trường hợp có xuất huyết dưới da, nôn hoặc đại tiểu tiện ra máu.

Bài 5: Rau diếp cá 100g, rau ngót 100g, cỏ nhọ nồi 50g, rửa sạch, vò với nước sôi để nguội, chia uống nhiều lần trong ngày.

Bài 6: Hành thái (sâm cau) sao đen 20g, trắc bá diệp sao đen 16g, cỏ nhọ nồi 12g, quả dành dành sao đen 8g, sắc với 600ml nước, cô lại còn 300ml, chia uống 6 lần trong ngày. Dùng tốt cho trường hợp sốt cao và đã có ban xuất huyết.

Bài 7: Cỏ nhọ nồi 20g, lá cối xay sao vàng 12g, rễ cỏ tranh 20g, sài đất 20g, kim ngân hoa 12g, hạ khô thảo sao qua 12g (nếu không có thì thay bằng bồ công anh 12g), hoa hòe 10g, gừng tươi 3 lát, sắc với 600ml nước trong 30 phút, uống ấm chia 3 lần trong ngày.

Bài thuốc Nam đơn giản điều trị sốt xuất huyết

Nhọ nồi

Bài 8: Cỏ nhọ nồi 20g, cam thảo 6g, hoạt thạch 12g (nếu không có thì thay bằng lá cối xay 12g), bông mã đề 16g (nếu không có thì thay bằng lá tre 16g, gừng tươi 3 lát, sắc với 600ml nước sạch trong 30 phút, uống ấm, chia 3 lần trong ngày. Khi hết sốt thì ngừng thuốc ngay.

Bài thuốc Nam đơn giản điều trị sốt xuất huyết

Hoa hòe

Lưu ý: Chỉ được dùng đơn thuần cho sốt xuất huyết độ I (người bệnh chỉ sốt, chưa có triệu chứng xuất huyết) và cấp độ II (người bệnh sốt có triệu chứng xuất huyết: xuất huyết dưới da, chảy máu cam, chảy máu chân răng, khạc ra máu, thậm chí nôn ra máu, tiểu ra máu hoặc kinh nguyệt kéo dài). Với độ III và IV (bệnh nhân có biểu hiện sốc và sốc nặng) nhất thiết phải sử dụng các biện pháp của y học hiện đại, các bài thuốc này chỉ có tác dụng hỗ trợ điều trị.

Theo ThS Hoàng Khánh Toàn - Sức khỏe và Đời sống

10/14/2015

1

CÂU KỶ TỬ

Kỷ tử có tác dụng gì? Cách sử dụng, mua kỷ tử ở đâu TP HCM. |  https://www.caythuocthiennhien.com/

Tên Việt Nam:

Kỷ tử, Câu khởi, Khởi tử, Địa cốt tử, Khủ khởi.

Tác dụng:

+ Bổ ích tinh huyết, cường thịnh âm đạo (Bản Thảo Kinh Tập Chú).

+ Bổ ích tinh bất túc,  minh mục, an thần (Dược Tính Bản Thảo).

+ Trừ phong, bổ ích gân cốt,  khử hư lao (Thực Liệu Bản Thảo).

+ Tư thận, nhuận phế (Bản Thảo Cương Mục).

+ Chuyên bổ thận, nhuận phế, sinh tân, ích khí, là thuốc chủ yếu bổ can thận chân âm bất túc, là thuốc tốt để ích tinh,  minh mụ c... (Bản Thảo Kinh Sơ)

+ Kỷ tử có tác dụng tư bổ can thận, sinh tinh huyết, minh mục, nhuận phế (Trung Dược Học).

+ Tư dưỡng Can Thận (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).

Chủ trị:

+ Trị  xoay xẫm, chóng mặt do huyết hư, thắt lưng đau, Di tinh, tiểu đường  (Trung Dược Học).

+ Trị các chứng can thận âm hư, âm huyết hư tổn, chứng tiêu khát, hư lao, khái thấu (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).

Liều dùng: 8 – 20g.

Kiêng kỵ:

+ Câu kỷ tử có tính chất nê trệ, vì vậy,  thận trọng đối với những bênh nhân tỳ vị hư yếu, tiêu chảy kéo dài (Trung Dược Học).

+ Tỳ vị suy nhược, tỳ hư thấp trệ tiêu chảy cấm dùng, có ngoại tà thực nhiệt cấm dùng (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sá

Đọc thêm: http://thuochay.blogspot.com/search/label/k%E1%BB%B7%20t%E1%BB%AD

 

10/12/2015

0

Bài thuốc nam điều trị viêm đường mật

Viêm đường dẫn mật là tình trạng viêm nhiễm xảy ra tại đường dẫn mật trong gan hoặc ngoài gan, thường gặp ở người trẻ tuổi, nữ mắc nhiều hơn nam. Bệnh nhân thường đau ở vùng hạ sườn phải, đau lan đến vùng thượng vị, đau tức khó chịu, có khi đau dữ dội khiến bệnh nhân thường nằm co một chân, đau lan ra phía sau và lan lên vai phải.




Bệnh nhân thường sốt từ 39 - 400C, sốt kéo dài và âm ỉ, miệng đắng, ăn ít hoặc bỏ ăn, tiêu hóa rất chậm, người mệt mỏi, sút cân nhanh, vàng da vàng mắt, do dịch mật bị ứ lại. Đau - sốt - vàng da là 3 triệu chứng điển hình của căn bệnh này. Nguyên nhân gây bệnh thường do sỏi, do vi khuẩn, do can khí uất kết hoặc do thấp nhiệt. Nguyên tắc điều trị theo Đông y là chống viêm thanh nhiệt, lợi mật hóa thấp, nếu có sỏi thì cần phải bài thạch...

Sau đây là một số bài thuốc trị bệnh này:

Bài 1: đinh lăng 16g, lá đắng 10g, cỏ mần trầu 12g, ngân hoa 12g, chỉ xác 10g, bạch thược 12g, đan bì 10g, chi tử 12g, phòng sâm 12g, bạch linh 10g. Ngày 1 thang, sắc 3 lần uống 3 lần.
Bài 2: nhân trần 10g, hạ liên châu 12g, rau má 16g, đại hoàng 6g, bạch truật 12g, ích mẫu 12g, kim ngân 12g. Ngày 1 thang, sắc 3 lần uống 3 lần.
Bài 3: chỉ xác 10g, lá đinh lăng 50 - 60g. Hai thứ nấu lấy nước đặc, cho bệnh nhân uống dần, 2 - 3 lần liền, có tác dụng thông ống dẫn mật, khi đã thông được thì triệu chứng đau giảm đi rất nhanh.
Bài 4: đại hoàng 8g, kim tiền thảo 16g, bồ công anh 16g, kim ngân 16g, nhân trần 12g, cam thảo 12g, xa tiền 12g. Ngày 1 thang, sắc 3 lần uống 3 lần.
Bài 5: ngân hoa 12g, liên kiều 10g, mã đề thảo 16g, rau má 16g, bồ công anh 16g, đại hoàng 6g, bạch thược 12g, phòng sâm 12g, đan sâm 10g, ích mẫu 16g, cam thảo đất 16g. Ngày 1 thang, sắc 3 lần uống 3 lần. Công dụng: chống viêm, bài thạch, lợi gan mật.
Ngoài việc dùng thuốc, bệnh nhân có thể sử dụng bài trà dược như sau: râu ngô 80g, nhân trần 50g, hạ liên châu 50g, rau má 100g, lá đinh lăng 100g, cam thảo 80g, phòng sâm 80g, sâm hành 80g (dược liệu ở dạng khô). Các vị cắt ngắn, sao giòn, trộn đều, bảo quản trong bình kín tránh ẩm. Ngày dùng 35 - 40g, hãm nước sôi vào bình kín, sau 10 phút là có thể dùng được, uống thay trà trong ngày. Công dụng: chống viêm, thanh nhiệt, lợi mật hóa thấp. Những người bị viêm tắc ống mật, sỏi mật, da vàng, tiểu vàng, mắt vàng, ăn uống kém, tiêu hóa chậm, đau tức hạ sườn phải... dùng phương này rất phù hợp.
Lương y Trịnh Văn Sỹ

10/06/2015

0

Dị thảo quý như vàng chưa từng biết đến ở Hoàng Liên Sơn



Thất diệp nhất chi hoa có tác dụng ức chế trực tiếp sự phát triển của tế bào ung thư. Nhiều nghiên cứu của các chuyên gia Trung Quốc cho thấy, dịch chiết thất diệp nhất chi hoa đã góp phần kéo dài thời gian sống của những bệnh nhân bị ung thư dạ dày và ung thư phổi.

Cây thất diệp nhất chị hoa có 7 lá


Sở dĩ người Trung Quốc đặt tên nó như vậy, vì nó có 7 lá, với một bông hoa ở giữa. Người Việt gọi đơn giản nó là cây bảy lá một hoa. Tuy nhiên, đồng bào Hoàng Liên Sơn gọi nó là cây rắn cắn. Vì nó có tác dụng giải độc mạnh, chữa rắn cắn, nên gọi đơn giản như vậy.

Theo sách cổ và thử nghiệm lâm sàng của các nhà khoa học quốc tế, thất diệp nhất chi hoa có các hoạt chất đặc thù, làm giảm đau, giải độc, an thần.

Thảo dược này có những hoạt chất kết hợp với các hoạt chất khác trong các loại thảo dược khác với những liều lượng nhất định, thích ứng với từng giai đoạn, có thể khống chế được khối u, và điều tiết sự rối loạn chức năng của ty thể, loại trừ được tế bào ung thư.
Nó có tác dụng rõ rệt với ung thư gan, ung thư phổi, ung thư bàng quang và ung thư vú.




Khi mới trồng, loài thảo dược này chỉ có 5 lá

Lương y Thanh bảo tôi đếm xem mấy lá. Hóa ra, đây là cây có 9 lá, chứ không phải 7 lá. Do đó, không thể gọi là cây thất diệp nhất chi hoa, hay cây bảy lá một hoa được, mặc dù, chúng chỉ khác nhau là có nhiều hơn 2 lá.



Khi đạt độ cao nhất định, nó sẽ ra tới 9 lá


Bao nhiêu năm nay, lương y Thanh đã bí mật gieo trồng loài thảo dược này khắp núi non. Anh chọn những điểm kín đáo, những khe đá, để gieo trồng. Để thu hoạch được củ, ít nhất phải 10 năm.

Hiện lương y Thanh cũng thu hoạch được một số củ của loài dị thảo này, có củ nặng tới 1,5kg. Anh chủ yếu biếu bạn bè ngâm rượu uống giải độc và sử dụng trong một số bài thuốc gia truyền.

Người Việt hiện chưa biết sử dụng loài thảo dược này hiệu quả trong điều trị ung thư, tuy nhiên, người Trung Quốc thu mua với giá cả chục triệu đồng một kg.


Một củ "cửu dược nhất chi hoa" nặng tới 1,5kg



9/20/2015

2

Thìa là, Thì là - Anethum graveolens L

Thìa là, Thì là - Anethum graveolens L., thuộc họ Hoa tán - Apiaceae.


Mô tả: 

Cây thảo sống hằng năm có thân nhẵn cao 60-80cm hay hơn, khía rãnh dọc; có rễ trụ. Lá có bẹ rất phát triển, phiến xẻ 3 lần lông chim, có các phiến nhỏ hình sợi; các lá ở ngọn tiêu giảm, không có cuống. Cụm hoa ở ngọn, trên thân và trên các cành, thành tán kép gồm 5-15 tán nhỏ; các tán này mang 20-40 hoa màu vàng. Quả bế kép nằm trên một cuống quả rẽ đôi; quả hình trứng có 10 cạnh mà 4 cái ở mép nở dãn thành cánh dẹp.

Bộ phận dùng: Quả - Fructus Anethi Graveolentis.

Nơi sống và thu hái: Thìa là mọc hoang dại ở miền Nam châu Âu, một số nước Bắc Phi. Ta có nhập trồng chủ yếu lấy cành lá làm gia vị.

Thành phần hóa học: 

Trong lá và quả đều có tinh dầu mà thành phần chủ yếu là limonen, carvon (60%).

Tính vị, tác dụng: 

Tinh dầu của lá và quả có tính kích thích ăn ngon miệng và tiêu hoá. Quả Thìa là có tính chất tương tự Hồi và Tiểu hồi, nên thường dùng làm thuốc mạnh tỳ vị, làm dễ tiêu hoá, chống co thắt, thông kinh, gây tiết sữa và lợi tiểu.

Công dụng, chỉ định và phối hợp: 

Lá Thìa là là rau gia vị món canh cá giấm, canh lươn, ốc; làm thơm ngon, lại át được mùi tanh. Quả được dùng để chữa chứng khó tiêu, nấc, nuối hơi, nôn mửa, đầy trướng, đau bụng,
Đau răng. Người ta dùng thuốc hãm 1-2 thìa cà phê hạt Thìa là trong một lít nước sôi hoặc dùng nước cất hạt 50-100ml trong ngày.

Còn dùng làm thuốc trị viêm thận, sỏi bàng quang, sỏi thận; người ta dùng 1 muỗng canh hạt Thìa là, giã nát cho vào ly, chế nước sôi vào hãm, chia làm 5-6 lần để uống trong ngày.

Cũng dùng chữa xơ vữa động mạch, Huyết áp cao, xơ cứng mạch não dẫn tới .Nhức đầu; dùng liều như trên nhưng chỉ uống 2 lần, liên tục trong nhiều ngày.

Khi có triệu chứng khó ngủ hoặc bị kích thích nhiều quá, cũng có thể uống trà Thìa là như trên trước khi ngủ. Có thể dùng lá tươi để thay hạt.


8/13/2015

0

Tác dụng của thảo dược Feverfew với cơn đau nửa đầu

Tác dụng của thảo dược Feverfew với cơn đau nửa đầu , Sử dụng thảo dược hạ mỡ máu

 

Cúc Feverfew là loại thảo dược được chuyên dùng cho chứng bệnh đau nửa đầu

Đau nửa đầu là một bệnh thuộc loại bệnh lý đau đầu do căn nguyên mạch, có đặc điểm bệnh lý cơ bản là: đau nửa đầu từng cơn, gặp nhiều ở tuổi thanh thiếu niên, ở nữ gặp nhiều hơn nam và đa số có yếu tố gia đình.

Thảo dược cũng được các nhà khoa học liệt kê trong danh sách các chất điều trị đau nửa đầu là Cúc Feverfew – một loại cây thuộc họ Cúc, được trồng nhiều ở châu Âu, Mỹ .

 

Thao duoc Feverfew tac dong len co che hinh thanh con dau nua dau 300x218 Tác dụng của thảo dược Feverfew với cơn đau nửa đầu

Thảo dược Feverfew làm giảm cường độ và tần suất cơn đau nửa đầu

 

Feverfew được công nhận và sử dụng rộng rãi nhất cho các cơn đau nửa đầu, bắt đầu từ thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên, và tới năm 1963, Feverfew được khuyến cáo để chữa những chứng đau đầu trong cuốn sách Gerad’s Herbal. Từ đó tới nay, rất nhiều nghiên cứu đã được thực hiện để chứng minh cho những ghi chép về loại thảo dược này.

Feverfew đã được phổ biến ở Anh trong những năm 1980 để điều trị chứng đau nửa đầu. Một cuộc khảo sát 270 người với chứng đau nửa đầu ở Anh cho thấy hơn 70% trong số họ cảm thấy tốt hơn nhiều sau khi uống trung bình 2 – 3 lá tươi Feverfew mỗi ngày, tuần suất xuất hiện cơn giảm giảm đáng kể.

Một nghiên cứu khác,có kết hợp sử dụng Feverfew với aspirin, cho thấy, những người sử dụng theo kết hợp này trong 12 tuần, đã có chứng đau nửa đầu ít hơn và cơn đau không còn kéo dài.

Một nghiên cứu lâm sàng trong 3 tháng với 49 người phát hiện ra rằng sự kết hợp của Feverfew, magiê, và vitamin B2 dẫn đến sự sụt giảm 50% chứng đau nửa đầu.

Feverfew có tác dụng tốt trên chứng đau nửa đầu là do việc tác động lên cơ chế hình thành cơn đau của các hoạt chất sinh học chính trong Feverfew : các sesquiterpene. Các chất này có tác dụng ức chế quá trình kết tập tiểu cầu – quá trình có giải phóng mạnh mẽ serotonin, giảm giải phóng serotonin. Đồng thời, dịch chiết Feverfew còn có tác dụng ức chế tổng hợp prostaglandin, do đó làm giảm co cơ trơn mạch máu và ức chế kết tập tiểu cầu. Feverfew làm giảm triệu chứng nôn và buồn nôn trong bệnh đau nửa đầu nhờ tác dụng ức chế giải phóng histamine – chất gây buồn nôn, nôn.

Đã có rất nhiều các nghiên cứu thử nghiệm trên lâm sàng, kết quả cho thấy feverfew có tác dụng giảm cả cường độ và tần suất lặp lại cơn đau nửa đầu.

Trồng cây Fewer rất dễ, tót nhất trồng khi thời tiết ấm áp , gieo trực tiếp trên đất có án nắng và ít gió . Cây có thể tự mọc lại từ hạt giống của mình.

Hạt giống cây Fewerfew có thể mua ở các shop online như  Amazon, Vườn Thảo Mộc

0

Giá trị lâm sàng của thảo dược Feverfew (Tanacetum parthenium) trong phòng và điều trị Đau nửa đầu

image001

 

Sáng ngày 02/03/2014, tại hội trường K71, bệnh viện Quân y 103 đã diễn ra hội thảo “Đau: cơ chế bệnh sinh và kinh nghiệm điều trị”. Hội thảo được chủ trì bởi GS-TS Lê Đức Hinh, chủ tịch hội thần kinh Việt Nam; GS-TS Nguyễn Văn Chương , chủ tịch Hội chống đau Hà Nội;  MD. PhD. Uwe Reuter , Giám đốc trung tâm chống đau Greiz CHLB Đức, ngoài ra còn có sự góp mặt của hơn 100 bác sỹ đến từ các bệnh viện lớn như bệnh viện K Trung ương, bệnh viện Đại học Y Hà Nội.

GS-TS Lê Đức Hinh, chủ tịch hội thần kinh Việt Nam khai mạc hội thảo



Đau là một khái niệm rộng lớn, phức tạp, cần được phân loại, nghiên cứu kỹ về cơ chế bệnh sinh. Các loại đau khác nhau: đau nửa đầu, đau ung thư, đau do bỏng, đau trong Gây mê- hồi sức…cần có những hướng điều trị khác nhau. Mỗi bài báo cáo là một kinh nghiệm điều trị thực tế, một phương pháp điều trị mới được cập nhật.

“Đau nửa đầu thì chúng tôi biết đến khá nhiều nhưng lần đầu tiên tôi được nghe điều này”. Phát biểu của PGS-TS Phan Việt Nga, khoa Nội thần kinh, BV 103 sau khi nghe bài báo cáo “Giá trị lâm sàng của thảo dược Feverfew (Tanacetum parthenium) trong phòng và điều trị Đau nửa đầu”.

Bài báo cáo cung cấp số liệu mới nhất về thực trạng sử dụng thuốc điều trị đau nửa đầu.như trên 70% bệnh nhân đau nửa đầu chỉ sử dụng thuốc giảm đau để điều trị bệnh và lo lắng về tác dụng phụ khi sử dụng quá thường xuyên loại thuốc này. Đau nửa đầu, một bệnh lý đau thần kinh lại chỉ được điều trị như một triệu chứng đau đầu thông thường. Vai trò của việc dự phòng tái phát cơn đau đang bị coi nhẹ một cách đáng báo động.

Trên 70% bệnh nhân đau nửa đầu chỉ sử dụng thuốc giảm đau để điều trị bệnh

(khảo sát trên 109 bệnh nhân tháng 01/2014)

Trên 70% bệnh nhân đau nửa đầu lo lắng về tác dụng phụ của thuốc khi dùng lâu dài

(khảo sát trên 109 bệnh nhân tháng 01/2014)

Bài báo cáo cũng cập nhật một giải pháp an toàn từ thảo dược. Feverfew, có tên khoa học là Tannacetum Parthenium, thuộc họ Cúc (Asteraceae) được trồng khắp nơi trên thế giới, đặc biệt vùng Châu Âu, Bắc Mỹ. Đây là một trong những thảo dược đầu bảng phòng ngừa tái phát cơn đau nửa đầu. Năm 1978, một tạp chí sức khỏe nước Anh đã viết bài về một phụ nữ  68 tuổi mắc bệnh Đau nửa đầu mạn tính từ khi 16 tuổi đã dùng lá Feverfew và giảm hoàn toàn cơn đau nửa đầu trong vòng một vài tháng. Từ những thập niên 80, các bác sỹ tại Anh, Pháp, Canada đã sử dụng rộng rãi Feverfew trong ngăn ngừa tái phát cơn đau nửa đầu. Từ thập niên 90, các sản phẩm từ Feverfew trở thành sản phẩm bán chạy nhất tại Hoa Kỳ.

Ths. Nguyễn Hiền Lương giới thiệu về thảo dược Feverfew…

LiveJournal Tags:

 

Hạt Giống Feverfew - Tanacetum parthenium - TAN00018

Feverfew , Tanacetum parthenium L, thuộc họ Cúc (Asteraceae)  là loại thảo dược rất hiệu quả trong việc điều trị chứngđau nửa đầu kinh niên không rõ nguyên nhân.

Thời gian trồng thích hợp : Hè
Ngày trưởng thành :  85
Chiều cao : 60 cm
Ánh sáng : Chịu nắng
Độ ẩm : Ẩm ướt, thoát nước tốt
Đất : Trồng được trên nhiều loại đất khác nhau.
Công dụng : làm cảnh, trị bệnh , gia vị , chống muỗi.

7/30/2015

1

Công dụng chữa bệnh tuyệt vời từ lá tía tô



Tía tô là loại thảo dược vô cùng tốt cho sức khỏe. Không chỉ làm rau gia vị cho các món ăn, lá tía tô thường được biết đến với công dụng giải cảm hiệu quả. Bên cạnh đó, lá tía tô cũng có thể trị bệnh mất ngủ, căng thẳng thần kinh…

Tía tô có tên khoa học là Perilla frutescens hay còn gọi là é tía, tử tô, xích tô (gọi là tử, xích tía vì cây có màu tím). Không chỉ là một loại rau thơm, tía tô còn được dân gian coi là thảo dược, là một trong số khoảng 8 loài cây thuộc họ Hoa môi (Lamiaceae hay Labiatae).

Tía tô vị cay, mùi thơm. Có 2 loại tía tô, đó là tía tô mép lá phẳng có màu tía nhạt, ít thơm; còn tía tô mép lá quăn màu tía sẫm, mùi thơm mạnh. Tía tô mép lá quăn có giá trị sử dụng làm thuốc hay hơn. Cây được trồng ở khắp nơi để làm thuốc và làm rau ăn.

Theo tin tức trên báo Sức khỏe và Đời sống, lá tía tô có tính ấm, vị cay, không độc. Lá dùng làm gia vị rất phổ biến đồng thời là vị thuốc rất hay dùng để trừ cảm mạo. Hạt làm trà uống và thuốc hạ khí, cành làm thuốc an thai. Trường hợp không có thì dùng thay thế cho nhau cũng được.
Công dụng chữa bệnh từ lá tía tô:

Chữa dị ứng
Khi dị ứng do ăn hải sản hay tiếp xúc lạnh, lấy ngay 1 nắm lá tía tô rửa sạch giã nát, vắt lấy nước cốt uống, còn bã đắp hay xát lên nơi ngứa, dị ứng sẽ khỏi. Lưu ý tránh gió và không được dầm nước.
Chữa chứng cảm mạo
Lấy lá tía tô tươi từ 15-20 g, giã nát, rồi cho nước sôi vào khuấy đều, gạn lấy nước uống. Hoặc lấy lá tía tô rửa sạch thái nhỏ sợi, trộn vào cháo ăn nóng rồi nằm đắp chăn cho ra mồ hôi sẽ khỏi cảm. Khi mồ hôi đã ra thì lấy khăn khô lau sạch và thay quần áo khác.


Có thể sử dụng lá tía tô để giải cảm


Bệnh về đường ruột
Uống nước trà lá tía tô giúp tăng cường sức khỏe hệ tiêu hóa và chữa trị các bệnh về đường ruột cũng như dạ dày. Khi dùng chung với lá bạc hà và các loại thảo dược khác, lá tía tô giúp xoa dịu triệu chứng khó tiêu, ợ nóng, đầy hơi, đau bụng...

Ngoài ra, thành phần kháng khuẩn có trong lá tía tô còn kích thích hệ miễn dịch, giúp xoa dịu các triệu chứng đau nhức cơ bắp.


Trị căng thẳng và mất ngủ
Mất ngủ và căng thẳng là căn bệnh phổ biến ngày nay. Kết hợp lá tía tô với các loại thảo dược khác như cúc La Mã (chamomile) hoặc cây nữ lang (valerian) có thể làm giảm 2 triệu chứng trên.

Bên cạnh đó, chất chống oxy hóa trong lá tía tô cũng có tác dụng ngăn ngừa sự phát triển của các gốc tự do gây hại cho tế bào, giúp ngừa bệnh ung thư.

Bảo An (tổng hợp)

7/29/2015

0

Bài thuốc nam điều trị viêm đường mật

Viêm đường dẫn mật là tình trạng viêm nhiễm xảy ra tại đường dẫn mật trong gan hoặc ngoài gan, thường gặp ở người trẻ tuổi, nữ mắc nhiều hơn nam. Bệnh nhân thường đau ở vùng hạ sườn phải, đau lan đến vùng thượng vị, đau tức khó chịu, có khi đau dữ dội khiến bệnh nhân thường nằm co một chân, đau lan ra phía sau và lan lên vai phải.


Bệnh nhân thường sốt từ 39 - 400C, sốt kéo dài và âm ỉ, miệng đắng, ăn ít hoặc bỏ ăn, tiêu hóa rất chậm, người mệt mỏi, sút cân nhanh, vàng da vàng mắt, do dịch mật bị ứ lại. Đau - sốt - vàng da là 3 triệu chứng điển hình của căn bệnh này. Nguyên nhân gây bệnh thường do sỏi, do vi khuẩn, do can khí uất kết hoặc do thấp nhiệt. Nguyên tắc điều trị theo Đông y là chống viêm thanh nhiệt, lợi mật hóa thấp, nếu có sỏi thì cần phải bài thạch...

Sau đây là một số bài thuốc trị bệnh này:


Bài 1: đinh lăng 16g, lá đắng 10g, cỏ mần trầu 12g, ngân hoa 12g, chỉ xác 10g, bạch thược 12g, đan bì 10g, chi tử 12g, phòng sâm 12g, bạch linh 10g. Ngày 1 thang, sắc 3 lần uống 3 lần.
Bài 2: nhân trần 10g, hạ liên châu 12g, rau má 16g, đại hoàng 6g, bạch truật 12g, ích mẫu 12g, kim ngân 12g. Ngày 1 thang, sắc 3 lần uống 3 lần.
Bài 3: chỉ xác 10g, lá đinh lăng 50 - 60g. Hai thứ nấu lấy nước đặc, cho bệnh nhân uống dần, 2 - 3 lần liền, có tác dụng thông ống dẫn mật, khi đã thông được thì triệu chứng đau giảm đi rất nhanh.
Bài 4: đại hoàng 8g, kim tiền thảo 16g, bồ công anh 16g, kim ngân 16g, nhân trần 12g, cam thảo 12g, xa tiền 12g. Ngày 1 thang, sắc 3 lần uống 3 lần.
Bài 5: ngân hoa 12g, liên kiều 10g, mã đề thảo 16g, rau má 16g, bồ công anh 16g, đại hoàng 6g, bạch thược 12g, phòng sâm 12g, đan sâm 10g, ích mẫu 16g, cam thảo đất 16g. Ngày 1 thang, sắc 3 lần uống 3 lần. Công dụng: chống viêm, bài thạch, lợi gan mật.
Ngoài việc dùng thuốc, bệnh nhân có thể sử dụng bài trà dược như sau: râu ngô 80g, nhân trần 50g, hạ liên châu 50g, rau má 100g, lá đinh lăng 100g, cam thảo 80g, phòng sâm 80g, sâm hành 80g (dược liệu ở dạng khô). Các vị cắt ngắn, sao giòn, trộn đều, bảo quản trong bình kín tránh ẩm. Ngày dùng 35 - 40g, hãm nước sôi vào bình kín, sau 10 phút là có thể dùng được, uống thay trà trong ngày. Công dụng: chống viêm, thanh nhiệt, lợi mật hóa thấp. Những người bị viêm tắc ống mật, sỏi mật, da vàng, tiểu vàng, mắt vàng, ăn uống kém, tiêu hóa chậm, đau tức hạ sườn phải... dùng phương này rất phù hợp.
Lương y Trịnh Văn Sỹ

1

Cách giải độc gan hiệu quả mà không phải uống thuốc


Gan là bộ phận vô cùng quan trọng giúp đào thải các độc tố trong cơ thể. Vì vậy cần phải có biện pháp giải độc gan để có cơ thể khỏe mạnh.





Dấu hiệu chứng tỏ gan của bạn đang bị nhiễm độc


Da vàng


Khi gan của bạn bị nhiễm độc các chất độc sẽ tích tụ bên trong cơ thể sau đó phát ra bên ngoài khiến phần da của bạn bị đổi màu.


Da đổi màu là do chất bilirubin - một sắc tố trong mật được tạo ra trong gan của bạn để giúp quá trình tiêu hóa và chúng làm cho da của bạn bị vàng đi.


Da nhạy cảm


Một nghiên cứu năm 2013 của Học viện Da liễu Mỹ đã phát hiện ra rối loạn về đông máu và rối loạn gan có mối liên hệ với sự nhảy cảm về da. Điều này chứng tỏ sự nhạy cảm của da có liên quan đến chức năng của gan.


Theo Bác sĩ Cindy Owen của Học viện Da liễu Mỹ nhận định rằng những người bị nhiễm độc gan thường sẽ có sự phát ban, nổi mụn, thay đổi kết cấu da,…





Hàm lượng cholesterol trong máu tăng lên


Gan có chức năng xử lý cholesterol, khi gan bị nhiễm độc lượng cholesterol trong máu sẽ tăng lên.


Trong 1 ấn phẩm năm 2005 của Trường Y khoa Harvard cũng đã được giải thích về vai trò của gan trong việc sản xuất cholesterol và tuần hoàn máu.


Do đó, khi lượng cholesterol trong máu tăng lên bạn nên đi khám gan ngay để có phương pháp giải độc cho gan.


Mất cảm giác ngon miệng và mệt mỏi


Khi gan bị nhiễm độc không có khả năng đào thải độc tố thì nó sẽ phản ứng với Cytokines, lần lượt kích hoạt các các chứng viêm trong cơ thể.


Nồng độ Cytokines tăng lên sẽ khiến bạn cảm thấy chán ăn, miệng khô, mệt mỏi,…


Chướng bụng


Đây là biểu hiện của việc ứ dịch trong ổ bụng do gan không có khả năng đào thải.Nó là sự biến chứng của bệnh xơ gan.


Làm sạch gan không cần đến thuốc


Để làm sạch gan, giải độc cho gan bạn không cần phải dùng đến thuốc hay các thực phẩm chức năng mà hãy ăn ngay những loại củ có tác dụng giải độc gan cực nhạy.





Ăn củ tỏi


Đây là loại gia vị có sẵn trong bếp của mọi nhà vì vậy bạn chỉ cần ăn những món ăn có chế biến từ loại gia vị này để giải độc gan. Nếu có thể ăn sống trực tiếp hiệu quả của nó còn tốt hơn nhiều.


Trong tỏi có chất Allicin và selen có tác dụng làm sạch gan, đồng thời tỏi còn có tác dụng kích hoạt, phục hồi lại các enzym trong gan và giải độc gan hiệu quả.


Ngoài ra ăn tỏi thường xuyên còn giúp bạn tăng cường hệ tim mạch, điều hòa huyết áp và tăng cường sức đề kháng cho cơ thể.


Ăn củ nghệ


Nghệ không chỉ nổi tiếng lá thần dược của dạ dày mà nó còn là bạn đồng hành hiếm có của lá gan.


Các hoạt chất trong nghệ có tác dụng điều hòa cholesterol trong máu, làm giảm tính viêm và bảo vệ gan tránh được tác động tiêu cực của gốc tự do. Do đó, dùng nghệ để giải độc gan là một liệu pháp cực cực công hiệu.


Bạn có thể dùng bột nghệ hay nghệ tươi để kho cá, kho thịt, nấu cà ri,…ăn nghệ tùy theo ý thích của bạn để có tác dụng tốt nhất cho gan, dạ dày mà hệ tuần hoàn máu.


Ăn củ gừng


Gừng cũng là một loại gia vị cực quý. Người ta thường kết hợp nước chanh gừng để giải độc gan vfa thanh lọc cơ thể hàng ngày.


Mỗi ngày 1 cốc nước chanh và vài lát gừng sẽ giúp bạn có sức đề kháng tốt, và một lá gan khỏe mạnh.


Đồng thời bạn nên có chế độ ăn uống lành mạnh để thúc đẩy quá trình giải độc gan có hiệu quả hơn nhé!


Phòng tránh nhiễm độc gan


Gan bị nhiễm độc là do chế độ ăn uống sinh hoạt của bạn không hợp lý để phòng ngừa sự nhiễm độc cho gan:


- Tăng cường ăn các loại rau màu xanh đậm vì chúng rất giàu chlorophy II thực vật giúp loại độc tố rất tốt.


- Không uống quá nhiều rượu bia.


- Ăn nhiều các thực phẩm tăng cường hệ miễn dịch cho gan như cà rốt, củ cải,…


- Uống thật nhiều nước, ít nhất là 1,5-2 lít nước mỗi ngày.


- Tránh thức khuya, làm việc quá sức.


- Ăn nhiều các loại trái cây họ cam quýt để ngăn chặn các gốc tự do, tăng hệ miễn dịch cho gan.

6/09/2015

0

thuốc từ cây huyết dụ



Cây huyết dụ thường được trồng làm cảnh. Có 2 loại cây huyết dụ. Một loại lá đỏ cả 2 mặt và một loại lá đỏ một mặt, còn mặt kia lá có màu xanh. Cả 2 loại đều được Đông y dùng làm thuốc. Theo Đông y huyết dụ có vị nhạt, hơi đắng, tính mát, có tác dụng bổ huyết, tiêu ứ, cầm máu dùng chữa chứng kiết lỵ, rong kinh, phong thấp nhức xương, xích bạch đới...

Lưu ý: phụ nữ trước khi sinh con và sau khi sinh mà bị sót nhau thì không được dùng thuốc có vị huyết dụ.

Trị chứng rong kinh: Lấy 20g lá huyết dụ, 10g rễ cỏ tranh, 10g đài tồn tại trên quả mướp, 10g rễ gừng. Tất cả mang thái nhỏ sắc với 400ml nước còn 100ml. Chia uống làm 2 lần trong ngày.

Trị chứng trĩ ra máu, đái ra máu, băng huyết: Lấy 20g lá huyết dụ tươi rửa sạch. Đổ 200ml nước vào sắc còn 100ml, chia uống trong ngày.

Trị chứng chảy máu cam, cháy máu dưới da: Lấy 30g lá huyết dụ tươi, 20g cỏ nhọ nồi, 20g lá trắc bá (sao cháy) sắc kỹ uống đều đến lúc khỏi.

Trị chứng kiết lỵ ra máu: Lấy 20g lá huyết dụ, 12g cỏ nhọ nồi, 20g rau má. Rửa sạch, giã nát, thêm ít nước sôi để nguội, gạn lấy nước thuốc uống. Dùng 2 - 3 ngày, nếu không giảm thì đến khám bệnh để được điều trị dứt điểm.

Trị chứng phong thấp đau nhức, bị thương ứ máu: Lấy 30g hoa, lá, rễ cây huyết dụ, 15g huyết giác. Sắc uống đến lúc có kết quả.

Trị chứng ho ra máu: Lấy 16g lá huyết dụ, 16g lá trắc bá sao đen. Đổ 400ml nước sắc còn 200ml chia uống làm 2 - 3 lần trong ngày.

BS Nguyễn Thị Thêu

6/07/2015

1

Dừa cạn trở thành niềm hy vọng cho những bệnh nhân mắc ung thư !

1. Mô tả:

Cây dừa cạn hay còn có tên gọi khác là rau dừa, cây hoa trường xuân, tứ thời hoa, bông dừa, cây sừng dê, cây nhật tân, cây hoa hải đăng ... tùy theo từng địa phương.

Dừa cạn có tên khoa học của nó là Vincarosealin hay Catharanthus Roseus (L.) G.Don thuộc họ trúc đào (Apocynaceae). Cây có nguồn gốc xuất xứ ở đảo Madagascar thuộc châu Phi nhưng được trồng ở nước ta rất nhiều để làm cảnh và làm thuốc.

Dừa cạn thuộc loại cây thân cỏ, cao chừng 0,4 - 0,8m, có nhựa màu trắng.

Lá cây: Lá dừa cạn hình bầu dục, thuôn hẹp ở gốc, có cuống ngắn.

Hoa: Hoa dừa cạn mọc thành cụm, cụm hoa gồm 2 bông mọc ra từ kẽ lá. Hoa có nhiều màu, màu đỏ, hồng, trắng với đốm vàng hay đỏ ở gần họng tùy theo chủng. Hoa có cánh hợp thành ống hẹp dài, ở phía trên chia 5 thùy.

Quả: Quả dừa cạn gồm 2 đại, nhiều hạt đen nhỏ.

Phân bố: Dừa cạn là loại cây mọc hoang. Ở nước ta loại cây này phân bố từ tỉnh Quảng Ninh đến Kiên Giang dọc theo vùng ven biển, tương đối tập trung ở các tỉnh miền Trung như Thanh Hóa, Nghệ An, Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam, Ðà Nẵng, Bình Ðịnh và Phú Yên.

2. Dược tính:

Người ta chỉ mới phát hiện ra những dược tính của dừa cạn trong việc áp dụng chữa bệnh vì trong tài liệu cổ của y học cổ truyền không thấy đề cập đến cây này.

Tuy vậy, y học cổ truyền một số nước cũng có ghi lại một vài kinh nghiệm sử dụng dừa cạn để chữa bệnh. Ví dụ, ở Ấn Độ, châu Úc, nam châu Phi, quần đảo Antilles, người ta dùng dừa cạn sắc uống để chữa bệnh tiểu đường cho thấy kết quả rất khả quan.

Ngoài ra, rễ dừa cạn còn được dùng để tẩy giun, chữa sốt, làm thuốc thông tiểu, điều kinh, trị tăng huyết áp, chữa sốt rét, kiết lị, tiêu hóa kém...

Bộ phận dùng để làm thuốc của dừa cạn là rễ, lá hoặc cả cây. Thông thường, người ta thường nhổ nguyên cả bụi cây dừa cạn về rửa sạch, cắt nhỏ, phơi khô để cất dùng dần. Trước khi sử dụng có thể sao qua cho thơm rồi sắc nước uống.

Tùy theo mục đích trị liệu, dừa cạn có thể được phối hợp với các vị thuốc khác hoặc dùng độc vị.

Năm 1958, xuất phát từ kinh nghiệm dùng dừa cạn chữa khối u của người dân Ấn Độ, các nhà khoa học Canada là Noble và cộng sự đã tiến hành nghiên cứu và phát hiện chất kháng ung thư trong lá cây dừa cạn là vincaleucoblastine (còn gọi là Vinblastin).

4 năm sau, Svoboda và cộng sự cũng tìm thêm một alkaloid nữa là Vincaleucocristin (còn gọi là vincristin).

Những thực nghiệm lâm sàng cho thấy, chiết xuất vinplastin, vincristin có tác dụng làm giảm bạch cầu, ức chế mạnh sự phân bào.

Các alkaloid này liên kết đặc hiệu với Tubulin, là protein ống vi thể ở thoi phân bào, phong bế sự tạo thành các vi ống này và gây ngừng phân chia tế bào ở pha giữa. Ở nồng độ cao, thuốc diệt được tế bào, còn ở nồng độ thấp làm ngừng phân chia tế bào.

Hàm lượng các alkaloid này trong dừa cạn rất nhỏ (khoảng 1 phần vạn trong lá dừa cạn khô đối với Vinblastin còn đối với Vincristin thì ít hơn 10 lần nữa ). Vì thế, quá trình điều chế hai alkaliod từ cây dừa cạn là 1 quá trình phức tạp và chi phí giá thành cao.

Hiện nay người ta đã tìm cách sinh tổng hợp hoặc bán tổng hợp hai loại alkaloid trên để giảm giá thành của thuốc.

Dừa cạn trồng ở Việt Nam chứa khoảng 0,1 – 0,2% alkaloid toàn phần. Trong đó, loại hoa trắng có tỷ lệ hoạt chất cao nhất. Tỷ lệ alkaloid trong rễ (0,7 – 2,4%) cao hơn trong thân (0,46%) và lá (0,37 – 1,15%).

3. Dừa cạn dùng để chữa ung thư như thế nào?

Chiết xuất alkaloid trong dừa cạn được dùng dưới dạng muối sulfat để chữa bệnh ung thư.

- Vinblastin sulfat: Vinblastin sulfat được coi là lựa chọn hàng đầu để điều trị ung thư biểu mô tinh hoàn, ngoài ra nó rất hiệu quả trong liệu pháp trị bệnh Hodgkin, ung thư nhau, ung thư biểu mô da đầu và ung thư biểu mô thận.

Vinblastin sulfat cũng dùng để điều trị u nguyên bào thần kinh, ung thư vú, ung thư cổ tử cung và ung thư dạng nấm da.

- Vincristin sulfat: Là một trong những thuốc chống ung thư được dùng rộng rãi nhất, đặc biệt có ích đối với các bệnh ung thư máu, thường được dùng để làm thuyên giảm bệnh bạch cầu lympho cấp.

Đây là lựa chọn hàng đầu để điều trị bệnh Hodgkin, u bạch huyết không - Hodgkin, ung thư biểu mô phổi, u Wilm, bạch cầu tủy bào mạn (đợt cấp tính), sarcom Ewing và sarcom cơ vân.

Ngoài ra, ở dạng dùng phối hợp, Vincristin sulfat còn được dùng cho ung thư biểu mô vú, ung thư cổ tử cung, u nguyên bào thần kinh và bệnh bạch cầu lympho mạn tính.

Nhân dân ta đã có bài thuốc chữa bạch cầu cấp ( bệnh máu trắng) bằng cách sắc uống thân và lá cây dừa cạn ( khoảng 15 gam thân lá khô/ngày).

0

Câu kỷ tử– Goji Berries

Được sử dụng bởi các thiền sư Tây Tạng như 1 thuốc thảo dược và thực phẩm quan trọng từ xa xưa, Goji berries là loại quả giàu dinh dưỡng nhất trên hành tinh chứa nhiều vitamin A, C và B12, cũng như các khoáng chất đồng, magiê, selen, kẽm và kali.

Goji Berries 1

6/04/2015

0

Công dụng chữa bệnh trĩ của rau diếp cá

Rau diếp cá được biết tới như một vị thuốc chữa bệnh trĩ rất hiệu quả. Nó có tác dụng chống nhiễm khuẩn, chống vi khuẩn, nâng cao sức đề kháng và lợi tiểu.

Rau diếp cá đã được nghiên cứu từ rất lâu và được biết đến với vị chua cay, tính mát có tác dụng thanh nhiệt, sát khuẩn ...rất tốt. Trong việc điều trị bệnh trĩ có tác dụng rất quan trọng.

Rau diếp cá đã được nghiên cứu từ rất lâu và được biết đến với vị chua cay, tính mát có tác dụng thanh nhiệt, sát khuẩn ...rất tốt. Trong việc điều trị bệnh trĩ có tác dụng rất quan trọng.

Khi các búi trí ra ngoài hậu môn:  Lấy muối ăn hòa với nước, rửa sạch dom rồi giã nhỏ lá diếp cá đắp vào, băng lại làm như vậy mỗi ngày một lần vừa giúp các búi trĩ không bị sa xuống mà còn diệt khuẩn không làm bệnh tiến triển nặng thêm.

Khi các búi trí ra ngoài hậu môn: Lấy muối ăn hòa với nước, rửa sạch dom rồi giã nhỏ lá diếp cá đắp vào, băng lại làm như vậy mỗi ngày một lần vừa giúp các búi trĩ không bị sa xuống mà còn diệt khuẩn không làm bệnh tiến triển nặng thêm.

Trĩ sưng đau: Lá rau diếp cá cho vào nồi nấu sôi rồi đem xông trực tiếp vào hộ môn khi cảm thấy nước ấm ấm thì rửa xong rồi đắp bã lá vào vết thương.  Nếu trĩ ra máu, lấy lá diếp cá, bạch cập phơi khô, tán bột. Ngày uống 6 - 12 gr, chia làm 2 - 3 lần.

Trĩ sưng đau: Lá rau diếp cá cho vào nồi nấu sôi rồi đem xông trực tiếp vào hộ môn khi cảm thấy nước ấm ấm thì rửa xong rồi đắp bã lá vào vết thương. Nếu trĩ ra máu, lấy lá diếp cá, bạch cập phơi khô, tán bột. Ngày uống 6 - 12 gr, chia làm 2 - 3 lần.

Thạc sĩ, Dược sĩ Đoàn Xuân Đinh, Khoa Dược, viện Y học cổ truyền Quân đội cũng cho biết, mùi tanh tanh của rau diếp cá khi vò ra chính là tinh của nó.

Thạc sĩ, Dược sĩ Đoàn Xuân Đinh, Khoa Dược, viện Y học cổ truyền Quân đội cũng cho biết, mùi tanh tanh của rau diếp cá khi vò ra chính là tinh của nó.

PGS. TS. Dương Trọng Hiếu, Phòng khám Đông Phương y quán, Hà Nội cho biết, theo Đông y diếp các có vị cay, tính hơi lạnh, giúp thanh nhiệt giải độc cho cơ thể, lợi tiểu, sát trùng. Chính vì vậy, trong các tài liệu y học cổ truyền cũng đã lưu lại nhiều tác dụng quý từ rau diếp cá.

PGS. TS. Dương Trọng Hiếu, Phòng khám Đông Phương y quán, Hà Nội cho biết, theo Đông y diếp các có vị cay, tính hơi lạnh, giúp thanh nhiệt giải độc cho cơ thể, lợi tiểu, sát trùng. Chính vì vậy, trong các tài liệu y học cổ truyền cũng đã lưu lại nhiều tác dụng quý từ rau diếp cá.

Tinh dầu này chính là công dụng quý của diếp cá. Lá và phần thân bò trên mặt đất của nó có những chất kết hợp cùng với tinh dầu mang tác dụng điều trị bệnh.

Tinh dầu này chính là công dụng quý của diếp cá. Lá và phần thân bò trên mặt đất của nó có những chất kết hợp cùng với tinh dầu mang tác dụng điều trị bệnh.

Chữa táo bón: Sao khô 10g diếp cá, hãm với nước sôi khoảng 10 phút, uống thay trà hàng ngày. Uống trong 10 ngày.

Chữa táo bón: Sao khô 10g diếp cá, hãm với nước sôi khoảng 10 phút, uống thay trà hàng ngày. Uống trong 10 ngày.

Chữa sốt ở trẻ em: Rau diếp cá 30g để tươi, rửa sạch, giã nát, thêm nửa bát nước nguội vào đun sôi, để nguội và uống làm một lần; đồng thời, lấy bã đắp vào thái dương.

Chữa sốt ở trẻ em: Rau diếp cá 30g để tươi, rửa sạch, giã nát, thêm nửa bát nước nguội vào đun sôi, để nguội và uống làm một lần; đồng thời, lấy bã đắp vào thái dương.

 Chữa kinh nguyệt không đều: Diếp cá 40g, ngải cứu 30g,giã nhỏ lọc bằng nước sôi để nguội lấy một bát nước thuốc, cho bệnh nhân uống làm 2 lần trong ngày, uống liền 5 ngày, uống trước kỳ kinh 10 ngày.

Chữa kinh nguyệt không đều: Diếp cá 40g, ngải cứu 30g,giã nhỏ lọc bằng nước sôi để nguội lấy một bát nước thuốc, cho bệnh nhân uống làm 2 lần trong ngày, uống liền 5 ngày, uống trước kỳ kinh 10 ngày.

Chữa viêm âm đạo: Diếp cá 20g, bồ kết 10g, tỏi 1 củ. Cho thuốc vào nồi cùng với 5 bát nước đun sôi thật kỹ. Cho bệnh nhân xông hơi nóng vào chỗ đau, sau đó dùng nước ngâm, rửa chỗ đau. Ngày làm 1 lần, cần làm trong 7 ngày liền.

Chữa viêm âm đạo: Diếp cá 20g, bồ kết 10g, tỏi 1 củ. Cho thuốc vào nồi cùng với 5 bát nước đun sôi thật kỹ. Cho bệnh nhân xông hơi nóng vào chỗ đau, sau đó dùng nước ngâm, rửa chỗ đau. Ngày làm 1 lần, cần làm trong 7 ngày liền.

Chữa mụn nhọt sưng đỏ: Lá diếp cá ăn sống hoặc giã nát đắp vào chỗ mụn nhọt.

Chữa mụn nhọt sưng đỏ: Lá diếp cá ăn sống hoặc giã nát đắp vào chỗ mụn nhọt.

Chữa bệnh viêm tai giữa: Lá diếp cá khô 20g, táo đỏ 10g, nước 60ml sắc còn 200ml chia uống 3 lần trong ngày.

Chữa bệnh viêm tai giữa: Lá diếp cá khô 20g, táo đỏ 10g, nước 60ml sắc còn 200ml chia uống 3 lần trong ngày.

Chữa viêm phế quản: Lá diếp cá, cam thảo đất mỗi thứ 20g. Sắc đặc, uống dần trong ngày.

Chữa viêm phế quản: Lá diếp cá, cam thảo đất mỗi thứ 20g. Sắc đặc, uống dần trong ngày.

Điều trị sỏi thận: 20g diếp cá, 15g rau dệu, 10g cam thảo đất. Sắc uống ngày một thang, uống trong 1 tháng. Hoặc 100g diếp cá, sao vàng, hãm với 1 lít nước sôi trong 20 phút, uống thay nước hàng ngày, uống trong 2 tháng.

Điều trị sỏi thận: 20g diếp cá, 15g rau dệu, 10g cam thảo đất. Sắc uống ngày một thang, uống trong 1 tháng. Hoặc 100g diếp cá, sao vàng, hãm với 1 lít nước sôi trong 20 phút, uống thay nước hàng ngày, uống trong 2 tháng.

Trị mụn nhọt sưng đỏ (chưa có mủ): 12g diếp cá, rửa sạch, giã nát đắp vào mụn nhọt rồi băng lại. Ngày thực hiện 2 lần. Làm trong 3 ngày, mụn nhọt sẽ đỡ sưng đau nhanh chóng. Trị vú sưng đau do tắc sữa: 25g diếp cá khô, táo đỏ 10 quả. Sắc với 3 bát nước còn 1 bát, chia 2 lần uống trong ngày. Uống trong 3 – 5 ngày.

Trị mụn nhọt sưng đỏ (chưa có mủ): 12g diếp cá, rửa sạch, giã nát đắp vào mụn nhọt rồi băng lại. Ngày thực hiện 2 lần. Làm trong 3 ngày, mụn nhọt sẽ đỡ sưng đau nhanh chóng. Trị vú sưng đau do tắc sữa: 25g diếp cá khô, táo đỏ 10 quả. Sắc với 3 bát nước còn 1 bát, chia 2 lần uống trong ngày. Uống trong 3 – 5 ngày.

Trị chứng đái buốt, đái dắt: 20g diếp cá, rau má, rau mã đề mỗi vị 40g rửa sạch, giã nát lọc lấy nước trong. Ngày uống 3 lần. Thực hiện trong 7-10 ngày.

Trị chứng đái buốt, đái dắt: 20g diếp cá, rau má, rau mã đề mỗi vị 40g rửa sạch, giã nát lọc lấy nước trong. Ngày uống 3 lần. Thực hiện trong 7-10 ngày.

Chữa sốt nóng trẻ em: 20g diếp cá, rửa sạch, giã nát lấy nước bỏ bã. Ngày uống 2 lần, dùng đến khi hết sốt. Hoặc 15g diếp cá, 12g lá hương trà loại nhỏ, rửa sạch, nấu nước uống. Ngày uống 2 lần sau bữa ăn. Dùng đến khi hết triệu chứng sốt.

Chữa sốt nóng trẻ em: 20g diếp cá, rửa sạch, giã nát lấy nước bỏ bã. Ngày uống 2 lần, dùng đến khi hết sốt. Hoặc 15g diếp cá, 12g lá hương trà loại nhỏ, rửa sạch, nấu nước uống. Ngày uống 2 lần sau bữa ăn. Dùng đến khi hết triệu chứng sốt.

Chữa đau mắt đỏ do trực khuẩn mủ xanh: 35g diếp cá, rửa sạch, tráng qua nước đun sôi để nguội, để ráo nước, rồi giã nát, ép vào hai miếng gạc sạch, đắp lên mắt sưng đau khi đi ngủ. Thực hiện trong 3 – 5 ngày.

Chữa đau mắt đỏ do trực khuẩn mủ xanh: 35g diếp cá, rửa sạch, tráng qua nước đun sôi để nguội, để ráo nước, rồi giã nát, ép vào hai miếng gạc sạch, đắp lên mắt sưng đau khi đi ngủ. Thực hiện trong 3 – 5 ngày.

Áp-xe vú, sưng đau, người phát sốt: Rau diếp cá 30g, lá đinh lăng 30g, quả ké (sao) 12g, hoa hòe (sao) 16g, ngân hoa 12g, kinh giới 12g, hoàng kỳ 12g, mộc thông 12g, chỉ xác 10g, bồ công anh 20g, cam thảo 16g.

Áp-xe vú, sưng đau, người phát sốt: Rau diếp cá 30g, lá đinh lăng 30g, quả ké (sao) 12g, hoa hòe (sao) 16g, ngân hoa 12g, kinh giới 12g, hoàng kỳ 12g, mộc thông 12g, chỉ xác 10g, bồ công anh 20g, cam thảo 16g.

Sắc ngày 1 thang, sắc 3 lần uống 3 lần. Đồng thời cho dùng bài thuốc đắp ngoài như sau: rau dấp cá 50g, lá mã đề 40g, lá chanh non 30g. Ba thứ giã nhỏ đắp tại chỗ băng lại.

Sắc ngày 1 thang, sắc 3 lần uống 3 lần. Đồng thời cho dùng bài thuốc đắp ngoài như sau: rau dấp cá 50g, lá mã đề 40g, lá chanh non 30g. Ba thứ giã nhỏ đắp tại chỗ băng lại.